Bản án về đòi lại nhà đất nhờ đứng tên giùm
- 20/08/2024
Nội dung vụ án
Năm 2020, ông C được bà H giới thiệu nhận chuyển nhượng nhà đất tại thửa đất số 506, tờ bản đồ số 43, tọa lạc tại thị xã B, tỉnh Bình Dương. Vì là người Đài Loan nên ông C không thể đứng tên trên giấy chứng nhận nên ông C đã nhờ bà H đứng tên giùm trên các hợp đồng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong quá trình nhận chuyển nhượng ông C và bà H cùng đi với nhau, bà H là người ký tên trên các giấy tờ liên quan. Ông C là người trực tiếp thanh toán tiền cho vợ chồng ông T1, và bà B (chủ cũ). Giữa hai bên không có văn bản xác nhận việc nhờ đứng tên giùm.
Sau khi nhận chuyển nhượng ông C cho bà H sinh sống trên nhà đất, sau một thời gian bà H thay khóa và cho người khác thuê. Nhận thấy bà H có ý định chiếm đoạt nhà đất trên nên ông C đã khởi kiện yêu cầu đòi lại nhà đất nhờ đứng tên giùm.
Ông C được ông T1, bà B, ông T2, bà Y làm chứng việc ông C đưa tiền mặt cho vợ chồng ông T1.
Bà H không đồng ý với ý kiến trên và xác định bà H có bỏ 1.000.000.000 đồng, ông C bỏ 900.000.000 đồng để mua nhà (nêu tại cấp phúc thẩm).
Quyết định của tòa án cấp sơ thẩm
Tóa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện đòi lại nhà đất nhờ đứng tên giùm của ông C. Bởi hai bên không có giấy xác nhận việc đứng tên giùm, việc vợ chồng ông T1 nhận tiền trực tiếp từ ông C không đủ để chứng minh việc đứng tên giùm.
Quyết định của tòa án cấp phúc thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bà H góp 1.000.000.000 đồng và ông C góp 900.000.000 đồng để mua nhà và quyết định: Buộc bà Phạm Thị Kim H có trách nhiệm trả lại cho ông C số tiền là 773.553.047 đồng (tương đương tỷ lệ đóng góp là 0,47%); Bà H được quyền quản lý, sử dụng nhà đất bởi các nhận định sau:
- Xác định mối quan hệ giữa ông C và bà H: Ông C và bà H có quan hệ tình cảm trong thời gian dài, ông C đã có gia đình nên hai người không đăng ký kết hôn.
- Xét nội dung trong file ghi âm bà H không có thừa nhận đứng tên giùm. Nguyên đơn chỉ căn cứ vào lời thừa nhận của chủ đất cũ về việc có nhận tiền trực tiếp để xác định toàn bộ nhà đất là của nguyên đơn là không có căn cứ.
- Xét nội dung trong file ghi âm: ông C yêu cầu bà H trả lại nhà đất và ông C sẽ trả cho bà H 1.000.000.000 đồng cụ thể “tôi mời xưởng trưởng qua đây để chúng ta cùng thương lượng với cô, cô lấy 1 tỷ rồi tìm người khác, tôi cũng không quan tâm, sau này tôi không xem cô là bạn nữa” và lời thừa nhận của bị đơn về việc nguyên đơn có bỏ 900.000.000 đông để mua đất là hoàn toàn phù hợp với nhau, nên có căn cứ xác định nguyên đơn cùng bỏ tiền để chuyển nhượng nhà đất với bị đơn.
- Xét thấy, bà H cho rằng số tiền 900.000.000 được ông C tặng cho là không có căn cứ. Bà H cho rằng số tiền trên đưa cho bà để bù đắp cho tuổi thanh xuân là không có căn cứ vì “hiện nay pháp luật chưa có quy định về bồi thường tuổi thanh xuân” nên ý kiến của bà H là không phù hợp.
Nội dung chi tiết của bản ản: