Bản án tranh chấp ranh giới đất là lối đi giữa hai gia đình
- 21/09/2024
Ngày 25 tháng 4 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đã đưa vụ án thụ lý số: 144/2023/TLST-DS về “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất” ra xét xử sở thẩm. Tại bản án này, Tòa án đã tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất của nguyên đơn.
1. Nội dung vụ án:
Nguyên đơn bà Đào Thị T trình bày:
Bà Đào Thị T và ông Bùi Văn Chiêm (chết năm 2022), có 03 người con là: Bùi Thị H, Bùi Văn T4 và Bùi Văn C. Năm 1980, cụ Ngô Thị Hợp và cụ Bùi Viết Phẩm có cho ông C, bà T thửa đất số 85, tờ bản đồ số 10, diện tích 510m2. Phần đất có phía đông tiếp giáp với thửa đất số 86 tờ bản đồ số 10 của hộ ông Bùi Ngọc A là lối đi ra vườn của gia đình ông C, bà T.
Trước đây gia đình nhà ông C, bà T làm nhà phía Bắc thổ đất, đến năm 1986, nhà của ông C, bà T bị bão đổ nên có làm nhà khác về phía nam thổ đất (nhà hiện nay) và mở lối đi khác trước nhà nhưng vẫn sử dụng lối đi cũ ra vườn phía sau nhà.
Khoảng năm 1993, nhà nước có tiến hành đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho các hộ dân, tại thời điểm đo đạc gia đình bà T, ông C không có mặt ở nhà nên không xác định được mốc giới giữa đất nhà ông C và đất nhà ông A.
Sau thời điểm đo đạc hai gia đình nhà ông C và gia đình nhà ông A cũng không xác định được ranh giới với nhau nên đến nay cả hai gia đình đều chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do đề nghị Tòa án xác định ranh giới quyền sử dụng giữa thửa đất số 85 tờ bản đồ số 10 tại xóm 6 xã H.V của vợ chồng bà T, ông C với thửa đất số 86 tờ bản đồ số 10 tại xóm 6 xã H.V của đồng thừa kế của ông A, để gia đình nhà bà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, năm 1979 bà nội bà (cụ Hợp) cho đất ông Bùi Ngọc A và hộ ông C ở vị trí đất cạnh nhau, khi đó giữa hai phần đất đã có ngõ đi đang tranh chấp như hiện nay, ngõ đi này đi để vào nhà ông bà nội và vào nhà ông A, vợ chồng ông C không sử dụng ngõ đi này mà sử dụng ngõ đi cạnh nhà ông Chung (mua của ông Chác).
Mốc giới giữa đất ông C với đất của ông A là đất tường nhà cũ ông C, gia đình ông C đã vây quây toàn bộ phần đất của ông bà. Khi ông A là bố bà Thoa xây nhà dịch ra phía nam thổ đất (nhà vợ chồng ông T, Bà T hiện nay đang sử dụng) ông A đã bỏ hàng đá ở ngõ đi, không xây nhà vào vị trí hàng đá. Bà Thoa khẳng định phần đất ngõ đi giữa hai thổ đất hiện nay là đất của ông A, không phải đất của gia đình ông C, do đó bà không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của bà T.
Bị đơn ông Bùi Văn T trình bày:
Ông Bùi Ngọc A chết năm 2013 và bà Trần Thị L chết năm 2022 sinh được 06 người con gồm: Bùi Văn T (chết năm 2022 chết sau bà Trần Thị L), Bùi Văn T1, Bùi Văn T, Bùi Thị H, Bùi Thị N, Bùi Thị T. Ông T có vợ là Lê Thị E và 02 con là Bùi Văn T2 và Bùi Văn T3.
Ông Bùi Ngọc A được bố mẹ đẻ cho thửa đất số 86 tờ bản đồ số tờ bản đồ số 10 xã H.V có cạnh phía Tây giáp đất hộ ông C. Bà T và đồng thừa kế của ông A trình bày khoảng năm 1980 ông A đã làm nhà ở trên thửa đất này và hiện nay ngôi nhà này còn nguyên trạng vợ chồng ông T, Bà T đang ở.
Giữa gia đình ông A và gia đình ông C xảy ra tranh chấp đất ranh giới sử dụng đất là lối đi (ngõ đi giữa hai hộ) nên ông A nhiều lần không ký hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do vậy hai thửa đất số 85 và thửa số 86 tờ bản đồ số 10 xã H.V chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nay bà Đào Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết xác định ranh giới quyền sử dụng đất hai thửa đất số 85 tờ bản đồ số 10 xã H.V và thửa đất số 86 tờ bản đồ số 10 xã H.V, Bà T và đồng thừa kế của ông A khẳng định ngõ đi giữa hai thửa đất trên không có hàng đá chắn ranh và ngõ này là đất của ông A, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông nhất trí với lời trình bày của Bà T và các đồng thừa kế khác của ông A về huyết thống gia đình, nguồn gốc thửa đất của ông A. Khi gia đình ông C ở nhà cũ, nhà phía Bắc thổ đất hiện nay thì gia đình ông C đi nhờ ngõ đi của ông A. Từ khi ông C làm nhà dịch xuống phía Nam thổ đất (nhà ở hiện nay) gia đình ông C đi thẳng từ nhà ra ngõ đi lối khác. Ngõ đi ngày trước có hàng đá ở giữa, ngõ đi trước đây có chiều rộng như hiện nay. Nay ông Thính đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật xác định ranh giới quyền sử dụng đất theo hồ sơ địa chính
2. Nhận định của Tòa án:
– Qua xem xét, thẩm định tại chỗ và hiện trạng sử dụng đất của hai thửa đất đang tranh chấp thì thấy:
Hồ sơ địa chính thể hiện:Thửa đất số 86 tờ bản đồ số 10 có diện tích 764m2 hiện đang do đồng thừa kế của ông Bùi Ngọc A sử dụng, đo đạc thực địa sử dụng đất là 863m2 (trong đó 783m2 đất ở, đất vườn và 80m2 đất đang làm lối vào ngôi nhà ông Thính (con ông A) thừa so với hồ sơ địa chính.
Theo hồ sơ địa chính thửa đất số 85 có diện tích 510m2 hiện đang do đồng thừa kế của ông Bùi Văn Chiêm và bà Đào Thị T sử dụng, đo đạc thực địa sử dụng đất là 437m2 thiếu 73m2 so với hồ sơ địa chính
– Về nguồn gốc đất:
Căn cứ vào hồ sơ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất của hai thửa đất trên và lời trình bày đương sự, đo đạc thực tế mô mốc do các đương sự kê khai cung cấp chỉ mốc giới thì thấy hiện nay thửa đất số 85, tờ bản đồ số 10, diện tích 510m2 tại xóm 6 xã H.V, theo hồ sơ địa chính đứng tên hộ ông C cạnh phía Đông đang tranh chấp với thửa đất số 86, tờ bản đồ số 10, diện tích 764m2 tại xóm 6 xã H.V theo hồ sơ địa chính đứng tên hộ ông A (đồng thừa kế của hộ ông A). Nên yêu cầu khởi kiện của bà T đề nghị Tòa án xác định ranh giới quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất trên là có cơ sở chấp nhận
– Về ranh giới giữa hai thửa đất đang tranh chấp:
- Các bên đương sự đều thống nhất khai nhận, quá trình sử dụng đất của đương sự đều khai nhận có sự biến động, hộ ông C và bà T đã xây dựng lại nhà và thay đổi lối đi, hộ ông A các đồng thừa kế có khai xây dựng nhà lại và xây thêm công trình nhà trên đất, về ranh giới đất đều không thống nhất.
Qua đo đạc hiện trạng sử dụng thực tế so với hồ sơ địa chính đang lưu trữ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì thửa đất số 86 đang sử dụng thừa 99m2 nhưng không lý giải được nguyên nhân sử dụng thừa đất; thửa đất số 85 đang sử dụng thiếu 73m2 đất so với hồ sơ địa chính. Căn cứ vào sơ đồ địa chính so với thực địa hiện nay thì phần đất ngõ đi phía đông nhà bà T hiện nay hai hộ đang sử dụng đi về phía bắc có 59m2 thuộc thửa đất của thửa 85 và 12m2 là diện tích đất của thửa 86. Trên thửa 85 hộ bà T đã xây dựng công trình nhà tầng cạnh phía Tây Bắc tiếp giáp hộ ông Chiếm còn lại một phần đất 14m2. Tuy nhiên ranh giới quyền sử dụng đất các chiều cạnh tiếp giáp khác bà T và các đồng thừa kế của ông C không yêu cầu Tòa án giải quyết, mốc giới quyền sử dụng đất các hộ liền kề khác không có yêu cầu và không tranh chấp nên Tòa án xác định ranh giới theo quy định pháp luật căn cứ vào bản đồ địa chính xác định ranh giới.
- Điều 175 Bộ luật Dân sự, điều luật quy định
Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung. Nên buộc đồng thừa kế của ông A phải trả lại phần đất đang sử dụng làm lối đi vào nhà ông Thính xây dựng cho các đồng thừa kế của của ông C và bà T.
3. Quyết định của Tòa án:
Căn cứ vào khoản 5, 7 Điều 166, Điều 203 Luật đất đai; Điều 175, Điều 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 147, các Điều 157, 158, 165 của Bộ luật tố tụng dân sự.
– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất của bà Đào Thị T.
– Xác định ranh giới quyền sử dụng đất của thửa đất số 85 tờ bản đồ số 10 tại xóm 6 xã H.V và thửa đất 86 tờ bản đồ số 10 tại xóm 6 xã H.V là đường thẳng nối các điểm (2’,16’,15’,15,9’).
– Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đương sự khi đương sự có yêu cầu theo quyết định của Bản án có hiệu lực pháp luật.
Nguồn: Bản án số 66/2024/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
XEM THÊM: