BẢN ÁN TRANH CHẤP ĐẤT DO MUA BÁN KHÔNG LẬP HỢP ĐỒNG
- 24/08/2024
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Năm 1990 ông Danh V được cha mẹ cho diện tích khoảng 13.000m2 đất trồng lúa tọa lạc hiện nay tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ. Đến năm 1991 ông V được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 11.315m2 tại các thửa đất số 255 diện tích 2.975m2, số 256 diện tích 2.340m2, số 265 diện tích 6.000m2. Lý do diện tích có chênh lệch là do bằng dây nên không chính xác.
Diện tích đất 13.000m2, ông V sử dụng ổn định đến năm 1992 thì chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị H2 diện tích 2.975m2, nhưng không lập hợp đồng chuyển nhượng nên diện tích 2.975m2 vẫn còn đứng tên ông V. Bà H2 sử dụng đến khoảng năm 2002 – 2003 chuyển nhượng cho vợ chồng ông Lâm Phước V1, bà Nguyễn Thị Thu M. Do việc chuyển nhượng giữa ông V1 và bà H2 không lập Hợp đồng chuyển nhượng nên khi bà H2 chuyển nhượng vợ chồng ông Phước V1, bà M thì ông V1 mới lập hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng ông Phước V1, bà M và ông Phước V1, bà M đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 255, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ, diện tích 2.975m2, MĐSD: Đất trồng lúa.
Vào năm 2007 vợ chồng ông Phước V1, bà M chuyển nhượng cho bà Ngô Thị Kim C và bà C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 13/12/2007 (chỉnh lý trang 4).
Đến ngày 09/02/2017 Nhà nước thu hồi diện tích 212,9m2 để làm kinh thủy lợi nên chỉ còn lại diện tích 2.762,1m2.
Cùng năm 2017 bà C chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hoàng S diện tích 2.762,1m2 và ông S đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 15/02/2017 (chỉnh lý trang 4).
Từ khi ông S nhận chuyển nhượng đất, ông S đã bao chiếm phần diện tích đất mà ông V1 sử dụng với diện tích khoảng 1.500m2 nằm ngoài thửa 255 tại vị trí A và C theo bản trích đo địa chính số: 471/TTKTTNMT ngày 10/5/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C.
Khi bị ông S chiếm sử dụng đất, ông V1 đã nhiều lần yêu cầu ông S trả đất nhưng ông S không trả. Cho nên, ông V1 đã khiếu nại đến Ủy ban nhân dân xã Đ giải quyết nhưng không thành.
Vì vậy, ông V1 khởi kiện yêu cầu:
- Yêu cầu Tòa án công nhận cho ông Danh V được quyền sử dụng đất với diện tích 761,9m2 (phần A) và diện tích 656,2m2 (phần C) đất lung bào tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ (theo bản trích đo địa chính số: 471/TTKTTNMT ngày 10/5/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C).
- Yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Hoàng S phải tháo dỡ, di dời, chặt phá, đập phá các công trình, kiến trúc, cây trồng để trả cho ông Danh V diện tích đất 761,9m2 và 656,2m2 nêu trên.

QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM:
- Đình chỉ yêu cầu của ông Danh V về việc yêu cầu Tòa án công nhận được quyền sử dụng đất và đòi ông Nguyễn Hoàng S trả diện tích 100,8m2 (trong phần A – 761,9m2), tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Danh V về việc yêu cầu Tòa án công nhận cho ông Danh V được quyền sử dụng đất và đòi ông Nguyễn Hoàng S trả diện tích 661,1m2 (trong phần A – 761,9m2) và diện tích 656,2m2 (phần C), tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Hoàng S: Công nhận cho ông Nguyễn Hoàng S được quyền sử dụng thửa đất số 255, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ, diện tích 3.017,3m2, MĐSD: LUC (theo bản trích đo địa chính số: 471/TTKTTNMT ngày 10/5/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM:
Xét kháng cáo của nguyên đơn – ông Danh V (đơn kháng cáo BL 244) Nguyên đơn kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng công nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận quyền sử dụng 1517 m2 đất bị đơn đang sử dụng và buộc bị đơn Nguyễn Hoàng S trả lại diện tích đất này cho nguyên đơn phần đất này. Tại phiên Toà phúc thẩm, đại diện bị đơn yêu cầu xem xét lại trình tự thủ tục xét xử giai đoạn sơ thẩm.
Xét diện tích đất tranh chấp: Phần đất tranh chấp hiện nay của các bên thuộc vị trí A, sau khi trừ đi phần đất nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện là 100.8 m2, còn lại là 661.1 m2 và phần đất ở vị trí C có diện tích 656.2 m2. Các phần đất tranh chấp hiện toạ lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C thành phố Cần Thơ.
Đối với phần đất ở vị trí A (Diện tích 661.1 m2):
Ở vị trí này, sau khi trừ phần ông Danh V rút yêu cầu là 100.8 m2, phần tranh chấp của các bên còn là 661.1 m2. Đối với phần này trên thực tế tiếp giáp mương lộ của tỉnh lộ 922. Năm 2020, khi Tòa án huyện C giải quyết vụ án tranh chấp đất giữa ông Võ Thanh C1 với ông Nguyễn Hoàng S, có liên quan đến phần đất này, lúc đó ông Danh V có tham gia với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Bản thân ông Danh V lúc đó không có ý kiến nào về việc bị ông S lấn chiếm đất. Ông Danh V không có phần đất nào tiếp giáp phần đất này nên ông Danh V khởi kiện yêu cầu ông S trả lại phần đất này là chưa có căn cứ.
Đối với phần đất ở vị trí C (Diện tích 656.2 m2)
Trên thực tế đây là phần đất lung bào hiện tại bị đơn đang quản lý sử dụng. Phần đất này không nằm trong thửa đất 255 giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất của bị đơn. Tại phiên toà, nguyên đơn trình bày là đang trực tiếp sử dụng, nhưng trên thực tế bị đơn Nguyễn Hoàng S mới là đang sử dụng trực tiếp, ổn định. Theo công văn số 2394/UBND-TNMT ngày 21.12.2022 (BL 126) của UBND huyện C, thành phố Cần Thơ thì phần đất này không thuộc trường hợp được cấp giấy Chứng nhận Quyền sử dụng đất. Bị đơn đang sử dụng ổn định, đất chưa được cấp giấy Chứng nhận, do nhà nước quản lý nên việc nguyên đơn khởi kiện đòi lấy lại đất và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất là chưa có căn cứ chấp nhận.
Nguyên đơn căn cứ diện tích đo đạc thực tế là 3886.4 m2 trên toàn bộ phần đất (kể cả đã cấp giấy cho bị đơn và phần ngoài giấy của bị đơn) để yêu cầu bị đơn trả lại hai vị trí A và C cho nguyên đơn. Hội đồng xét xử xem xét quá trình chuyển nhượng đất từ năm 2002-2007 thấy rằng giữa nguyên đơn và bị đơn không có chuyển nhượng trực tiếp với nhau, nguyên đơn không có giao đất cho bị đơn. Quá trình chuyển nhượng qua nhiều người mới đến bị đơn chuyển nhượng. Vì vậy, không thể xảy ra việc đất của nguyên đơn còn lại trong phần đất đã chuyển nhượng cho các cá nhân trước đây nhưng bị đơn đã chiếm để sử dụng.
Đối với kết quả đo đạc tổng cộng là 3886.4 m2 trong khi phần đất này hiện bị đơn được cấp là 2762.1 m2 sau khi trừ diện tích ngoài giấy của bị đơn và phần thu hồi là phần chênh lệch là không nhiều (3886.4 m2 – 212.9 m2 – 656.2 m2 = 3017,3 m2). Các hộ có đất xung quanh cũng không có tranh chấp.
Từ những phân tích trên đã chứng minh việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu đòi lại tổng cộng 1517 m2 đất ở các vị trí A và C là chưa có căn cứ.
QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM:
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2023/DS-ST ngày 30/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
- Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn ông Danh V về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất và đòi bị đơn ông Nguyễn Hoàng S trả diện tích 100,8m2 đất (trong phần A – 761,9m2), tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Danh V về việc yêu cầu Tòa án công nhận cho ông Danh V được quyền sử dụng đất và đòi ông Nguyễn Hoàng S trả diện tích 661,1m2 đất (trong phần A – 761,9m2) và diện tích 656,2m2 đất (phần C), tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Hoàng S. Công nhận cho ông Nguyễn Hoàng S được quyền sử dụng thửa đất số 255, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ, diện tích 3.017,3m2, MĐSD: LUC (theo Bản trích đo địa chính số 471/TTKTTNMT ngày 10/5/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C).
NỘI DUNG CHI TIẾT BẢN ÁN TẠI:
Xem thêm:
Không xác định được diện tích đất tranh chấp dẫn đến huỷ bản án do không thể thi hành án
